Khu vực trung du và miền núi phía Bắc thay đổi từ Nghị quyết 37
(LĐXH)- Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 37, các nhiệm vụ trọng tâm của ngành LĐTB&XH liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh của vùng đã được ngành triển khai cơ bản có hiệu quả.
Sáng 25/9 tại Hà Nội, Bộ LĐTB&XH tổ chức Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (TDMNBB).
PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn – Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương và Thứ trưởng Bộ LĐTB&XH Lê Tấn Dũng chủ trì Hội nghị. Hội nghị cũng có sự hiện diện của đại đại diện một số Bộ, ngành Trung ương và lãnh đạo các tỉnh Bắc Kạn, Sơn La.
Những kết quả nổi bật
Thông tin tại Hội nghị cho thấy 3 chỉ tiêu chủ yếu đã đạt được những kết quả quan trọng sau 15 năm thực hiện Nghị quyết. Trong đó, về phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, giai đoạn 2005-2018, các chỉ tiêu về thị trường lao động, giải quyết việc làm cơ bản hoàn thành tốt theo kế hoạch đặt ra. Giai đoạn 2006 – 2018, giải quyết việc làm cho 2,174 triệu lao động; 6 tháng đầu năm 2019, giải quyết cho 710.000 lao động. Hoạt động vay vốn tạo việc làm từ quỹ Quốc gia về việc làm tiếp tục góp phần quan trọng hỗ trợ tạo và tự tạo việc làm cho người lao động.Thứ trưởng Lê Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị
Từ năm 2010 đến hết tháng 4/2019, các trung tâm dịch vụ việc làm đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho 291.816 lượt người thất nghiệp (giai đoạn 2014 – 2018 là 243.250 lượt người), giải quyết hỗ trợ học nghề cho 3.856 người (giai đoạn 2014 – 2018 hỗ trợ cho 3.193 người). Tỷ lệ lao động qua đào tạo của vùng tăng đều qua từng năm (năm 2014: 39,64%, năm 2015: 41,66%, năm 2016: 42,79%, năm 2017: 45,29%, năm 2018: 47,31%).
Về phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giai đoạn 2004 đến 2008: Số lượng cơ sở dạy nghề của vùng chiếm 16% của cả nước với 94 cơ sở dạy nghề. Giai đoạn 2009 đến 2013: Tỷ lệ cơ sở dạy nghề trong vùng so với cả nước tăng không đáng kể (chiếm 17,6%); tuy nhiên, số lượng cơ sở dạy nghề tăng 2,5 lần đạt 247 cơ sở (năm 2013), đặc biệt là số lượng trường cao đẳng tăng 2,5 lần. Giai đoạn 2014 đến nay, vùng có 301 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chiếm 16% số cơ sở giáo dục nghề nghiệp cả nước. Trong đó, có 04 trường đã được lựa chọn để ưu tiên hỗ trợ đầu tư tập trung, đồng bộ theo tiêu chí của trường nghề chất lượng cao vào năm 2020.
Chất lượng và hiệu quả đào tạo trình độ các trình độ có bước chuyển biến tích cực, người học sau khi tốt nghiệp có việc làm đúng ngành, nghề đào tạo đạt tỷ lệ cao và có thu nhập ổn định. Đào tạo từng bước chuyển từ hướng “cung” sang hướng “cầu”, gắn với nhu cầu nguồn nhân lực, nhu cầu sử dụng lao động, góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo và phát triển kinh tế - xã hội cho vùng. Tỷ lệ lao động nông thôn sau đào tạo có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ nhưng năng xuất, thu nhập cao hơn đạt 86,5%.
Thực hiện tốt công tác giảm nghèo, an sinh xã hội: Từ nguồn lực đầu tư của nhà nước thông qua các chính sách và chương trình giảm nghèo, người nghèo đã tiếp cận thuận tiện hơn các chính sách trợ giúp của nhà nước; đời sống của người nghèo được từng bước cải thiện, an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tỷ lệ nghèo các tỉnh vùng giảm nhanh, từ 38,72% (2005) xuống còn 31,38% (2010); 25,77% (2015) và 15,82% (2018). Tỷ lệ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5,5%/năm, các xã nghèo giảm bình quân từ 3-4%/năm. Đến hết năm 2018, toàn vùng có 07 huyện thoát nghèo và được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, 72 xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong khu vực đạt chuẩn nông thôn mới.
Cùng với đó, tổ chức thực hiện tốt chính sách trợ giúp các đối tượng xã hội đã ban hành. Đến năm 2018, vùng TDMNBB có gần 700.000 người hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, kinh phí trợ giúp xã hội hàng tháng, cấp thẻ BHYT của khu vực là khoảng gần 4.000 tỷ đồng. Khoảng 5.000 đối tượng đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội với mức nuôi dưỡng khoảng 1,2 triệu đồng/người/tháng.
Tuy nhiên, Bộ LĐTB&XH cũng nhấn mạnh, vùng TDMNBB vẫn là vùng nghèo, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhất của cả nước, đa phần là các các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, có tỉnh 99% hộ nghèo là hộ dân tộc thiểu số như Hà Giang, Cao Bằng, Lai Châu. Tỷ lệ tái nghèo và phát sinh nghèo tương đối cao.
Chất lượng lao động là người dân tộc thiểu số còn thấp nên khả năng giải quyết việc làm tại chỗ và nâng cao chất lượng việc làm không cao. Đặc biệt, tệ nạn ma túy vẫn còn diễn biến phức tạp, người nghiện ma túy chưa được lập hồ sơ quản lý còn nhiều, người được chữa trị, cai nghiện hiệu quả thấp, tỷ lệ tái nghiện cao, số người mới mắc nghiện ma túy tổng hợp có chiều hướng gia tăng.
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Lê Tấn Dũng khẳng định, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 37, các nhiệm vụ trọng tâm của ngành LĐTB&XH liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh của vùng đã được ngành triển khai cơ bản có hiệu quả. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản đã hoàn thành và vượt so với kế hoạch đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển giai đoạn của toàn vùng.
Thứ trưởng đánh giá cao những nỗ lực của các đơn vị trực thuộc Bộ cũng như các ban ngành chức năng, đặc biệt các địa phương trong vùng đã có sự nỗ lực, phối hợp rất chặt chẽ trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, trong đó có lĩnh vực lao động, xã hội và người có công.Toàn cảnh Hội nghị
Một số mục tiêu
Bộ LĐTB&XH đề ra mục tiêu đến năm 2030: Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70 - 75%; tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp giảm còn 45 - 50%. Phấn đấu hàng năm giảm bình quân 1,5% hộ nghèo (riêng các huyện nghèo/ xã nghèo giảm 4%; hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 3-4%).
Đến năm 2030: 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; nâng mức trợ cấp xã hội hàng tháng; có chính sách trợ giúp đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; tiếp tục mở rộng diện người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội của Nhà nước được hưởng trợ cấp xã hội. 80% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 50% đối tượng được cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện.
Giai đoạn 2025-2030, phấn đấu nâng quy mô tuyển sinh đạt trên 4,6 triệu người mỗi năm; ít nhất 85% người học có việc làm hoặc có năng suất, thu nhập cao hơn sau đào tạo; có 70 trường được công nhận trường chất lượng cao, trong đó có tối thiểu 5 trường đạt cấp độ các nước phát triển trong nhóm G20; 40 trường tiếp cận cấp độ các nước ASEAN-4; phấn đấu có tối thiểu 20% cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập tự chủ về tài chính./.
Dương Thìn
Từ khóa:
-
Chương trình “Hồ Chí Minh - Hành trình khát vọng 2024”: Tôn vinh các điển hình tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
16-11-2024 12:05 10
-
Chiến thắng Bình Giã- mốc son lịch sử
16-11-2024 05:44 51
-
Các nhà lãnh đạo trẻ khát vọng xây dựng một ASEAN kết nối và sáng tạo hơn
16-11-2024 05:44 41
-
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
05-11-2024 14:56 51
-
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Cần tập trung vào Đề án phát triển nhân lực chất lượng cao
04-11-2024 20:35 46
-
Phát huy vai trò công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng (Bài 2)
16-10-2024 15:40 32