Lao động
Nhiều chính sách mới sắp có hiệu lực đối với người lao động
10:19 AM 28/12/2020
(LĐXH)- Tăng thời giờ làm thêm theo tháng lên 40 giờ, người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do, tăng tuổi nghỉ hưu… là những chính sách mới sắp có hiệu lực đối với người lao động.
Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2021.
Tăng thời giờ làm thêm
Bộ luật Lao động sửa đổi vẫn giữ nguyên thời giờ làm việc bình thường như quy định của Bộ luật năm 2012, đồng thời, không tăng thời giờ làm thêm trong năm.
Bộ luật quy định bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong một ngày. Nếu áp dụng thời giờ làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ/ngày; không quá 40 giờ/tháng; không quá 200 giờ/năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ/năm.
Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 quy định số giờ làm thêm trong tháng tăng lên 40 giờ thay vì 30 giờ như trước đây
Điểm mới của Bộ luật sửa đổi nằm ở thời gian làm thêm giờ. Theo đó, số giờ làm thêm trong tháng tăng lên 40 giờ thay vì 30 giờ như trước đây. Đồng thời quy định cụ thể các trường hợp được làm thêm tới 300 giờ/năm như: sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm là hàng dệt, may, da, giày, linh kiện điện, điện tử, chế biến nông, lâm, thủy sản; cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước…
Đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do
Để khắc phục những hạn chế, bất cập từ việc áp dụng các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động, Điều 35 - Bộ luật Lao động sửa đổi cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do, chỉ cần báo trước 30 ngày với hợp đồng xác định thời hạn và 45 ngày với hợp đồng không xác định thời hạn.
Trong một số trường hợp, người lao động còn được đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước, như: không được bố trí theo đúng công việc, không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn; bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ; bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc; lao động nữ mang thai phải nghỉ việc…
Bên cạnh đó, người lao động cũng được quyền yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của mình khi chấm dứt hợp đồng lao động; các chi phí của việc cung cấp do người sử dụng lao động chi trả...
Ủy quyền cho người khác nhận lương
Một điểm mới không có trong Bộ luật Lao động 2012 liên quan đến quy định tiền lương đó là Bộ luật Lao động sửa đổi nêu rõ “trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp”. Việc cho phép người lao động ủy quyền cho người khác nhận lương được cho là hợp lý, nhất là trong trường hợp người lao động bị ốm đau, tai nạn không thể trực tiếp nhận lương…
Người lao động có thể ủy quyền cho người khác nhận lương
Bộ luật Lao động sửa đổi cũng quy định việc trả các loại phí liên quan đến mở tài khoản và phí chuyển tiền là trách nhiệm bắt buộc của người sử dụng lao động. Đặc biệt, để minh bạch tiền lương của người lao động, Bộ luật còn yêu cầu mỗi lần trả lương, người sử dụng lao động phải thông báo bảng kê trả lương người lao động, trong đó ghi rõ: tiền lương; tiền lương làm thêm giờ; tiền lương làm việc vào ban đêm; nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có)…
Được thưởng “không chỉ bằng tiền”
Bộ luật Lao động sửa đổi quy định về “Thưởng” thay vì “Tiền thưởng” như Bộ luật năm 2012. Theo điều 103 của Luật, khái niệm thưởng cho người lao động được mở rộng, có thể là tiền, tài sản hoặc bằng các hình thức khác căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động. Quy chế thưởng do người sử dụng lao động quyết định và công bố công khai tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
Chính vì vậy, từ ngày 1/1/2021, người sử dụng lao động được phép thưởng cho người lao động không chỉ bằng tiền mà còn có thể bằng tài sản hoặc các hình thức khác.
Tăng tuổi nghỉ hưu
Theo Điều 169 - Bộ luật Lao động sửa đổi đề cập đến quy định tăng tuổi nghỉ hưu, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Như vậy, kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với nam; đủ 55 tuổi 4 tháng đối với nữ. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng với lao động nam; 4 tháng với lao động nữ.
Đối với người bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hay làm việc ở nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thì có thể nghỉ hưu trước không quá 5 tuổi.
So với quy định của Bộ luật Lao động 2012, tuổi nghỉ hưu của người lao động đã tăng lên đáng kể. Nhất là với những công việc đặc thù, việc nghỉ hưu trước tuổi của người lao động đã được quy định cụ thể, rõ ràng hơn.
Được nghỉ 2 ngày lễ Quốc khánh
Từ năm 2021, lễ Quốc khánh sẽ được 2 ngày
Theo Điều 112 - Bộ luật Lao động sửa đổi quy định bổ sung thêm một ngày nghỉ trong năm vào ngày liền kề với ngày Quốc khánh, có thể là 1/9 hoặc 3/9 Dương lịch, tùy theo từng năm và theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Theo đó, tổng số ngày nghỉ lễ, Tết hàng năm sẽ nâng lên 11 ngày, gồm: Tết Dương lịch nghỉ 1 ngày; Tết Âm lịch nghỉ 5 ngày; Thống nhất đất nước 30/4 nghỉ 1 ngày; Quốc tế lao động 1/5 nghỉ 1 ngày; Quốc khánh nghỉ 2 ngày; Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 Âm lịch) nghỉ 1 ngày.
Trong những ngày nghỉ Lễ, Tết, người lao động được nghỉ làm việc và hưởng nguyên lương. Nếu làm việc vào những ngày này sẽ được hưởng ít nhất 300% lương. Ngoài ra, mỗi tuần, người lao động được nghỉ ít nhất 24 giờ liên tục; trong trường hợp đặc biệt do chu kỳ lao động không thể nghỉ hàng tuần, người sử dụng lao động có trách nhiệm bảo đảm cho người lao động được nghỉ tính bình quân 1 tháng ít nhất 4 ngày.

Chí Tâm

 

Từ khóa: