Giáo dục - Nghề nghiệp
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp
05:34 PM 04/02/2019
(LĐXH) - Quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN phải bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển GDNN, tăng cường tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN nhằm khuyến khích năng lực chủ động, sáng tạo của các cơ sở GDNN, tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động trong phát triển GDNN.
Đứng trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và phát triển giáo dục, đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, với tiến bộ khoa học - công nghệ. Trong thời gian qua, giáo dục nghề nghiệp luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự hỗ trợ của các Bộ, ngành vì vậy GDNN từng bước được cải thiện cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Học sinh, sinh viên ra trường có việc làm ngay với thu nhập cao, đã dần đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
Thứ trưởng Bộ Lao động - TBXH Lê Quân phát biểu tại Lễ xuất quân Đoàn Việt Nam tham dự tay nghề ASEAN năm 2019
Năm 2018 được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chọn là năm đột phá trong GNNN, với mục tiêu tạo bước chuyển biến rõ nét, thực chất về chất lượng và hiệu quả GDNN đáp ứng nhu cầu của người học, thị trường lao động và doanh nghiệp, đặc biệt trong những ngành, nghề có nhu cầu lao động lớn, đòi hỏi yếu tố kỹ thuật và công nghệ cao. Bộ LĐTBXH đã triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp từ xây dựng thể chế, quy hoạch lại mạng lưới, đẩy mạnh gắn kết với doanh nghiệp, thực hiện gắn tuyển sinh với tuyển dụng, nhân rộng mô hình đào tạo 9+ gắn với phân luồng, đổi mới công tác truyền thông, cắt giảm thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh... Chính vì vậy, nhận thức của xã hội, của doanh nghiệp và các cấp quản lý về học nghề bước đầu có thay đổi tích cực; công tác tuyển sinh đào tạo các trình độ trong GDNN đạt, vượt chỉ tiêu kế hoạch và được nâng cao về chất lượng. Hoạt động đào tạo đã chuyển từ “cung” sang “cầu”, gắn với nhu cầu nguồn nhân lực, nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp, đặc biệt là khối các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao độngcó vốn đầu tư nước ngoài, các các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động đòi hỏi lao động trực tiếp tay nghề cao ở các lĩnh vực công nghệ tiên tiến. Tỷ lệ học sinh, sinh viên tốt nghiệp có việc làm đạt cao, khoảng 70-80% tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số ngành, nghề tại một số cơ sở GDNN, tỷ lệ này đạt trên 90%, đặc biệt có những ngành, nghề 100% sinh viên ra trường có việc làm ngay đúng với chuyên môn được đào tạo. Tại nhiều cơ sở GDNN, các doanh nghiệp ký hợp đồng tiếp nhận sinh viên đến làm việc ngay trong lễ tốt nghiệp, thậm chí ngay từ khi bắt đầu đi thực tập tại doanh nghiệp.
Tuy nhiên, giáo dục nghề nghiệp vẫn còn nhiều thách thức ở phía trước, đặc biệt là khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ. Trên thực tế, nhận thức về học nghề của xã hội chưa cao, đầu tư của nhà nước và của xã hội, của doanh nghiệp cho giáo dục nghề nghiệp còn rất thấp, tư duy bao cấp của nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn lớn, năng lực phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp yếu dẫn đến sự chủ động của doanh nghiệp trong hợp tác với trường nghề còn thấp... Từ thực tế đó, quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN phải bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển GDNN, tăng cường tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN nhằm khuyến khích năng lực chủ động, sáng tạo của các cơ sở GDNN, tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động trong phát triển GDNN. Đổi mới GDNN phải đặc biệt coi trọng chất lượng, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa đào tạo đại trà, diện rộng và đào tạo chuyên sâu, chất lượng cao.
Thứ trưởng Lê Quân thăm và làm việc tại Trường Cao đẳng Y tế Phú Yên
Dự báo đến năm 2025, nước ta có 78,07 triệu người từ 15 tuổi trở lên, trong đó ở nông thôn là 46,56 triệu người, chiếm 59,64%. Lực lượng lao động làm việc trong nền kinh tế gần 63 triệu người, số lao động trong độ tuổi là 52,8 triệu người; nhân lực trong nông nghiệp chiếm 35 - 38% (năm 2020) và 28,3% (năm 2025), trong công nghiệp - xây dựng chiếm 31% (năm 2020) và 25,1% (năm 2025) và trong dịch vụ chiếm 27,0% - 29% (năm 2020) và 46,6% (năm 202%)  tổng nhân lực trong nền kinh tế. Trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế, số lao động giản đơn là khoảng 12,42 triệu người, chiếm 20,1%; số lao động có kỹ năng trong nông, lâm, ngư nghiệp là 9,21 triệu người, chiếm 14,9%; số công nhân kỹ thuật vận hành máy và thợ lắp ráp là 7,7 triệu người, chiếm 12,46% và số lao động thủ công là 7,50 triệu người, chiếm 12,13%, lao động chuyên môn bậc trung là 1,82 triệu người, chiếm  2,94%. Như vậy, đến năm 2025 lao động dịch chuyển từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ trong đó chủ yếu chuyển sang ngành dịch vụ.
Với sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, một số ngành nghề sẽ được phát triển trong tương lai liên quan tới các lĩnh vực ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Internet di động, công nghệ điện toán đám mây, robot trong công nghiệp và gia đình, xe không người lái, thiết bị bay không người lái, máy in 3D, công nghệ nano, thực tế ảo, phương pháp điều trị kỹ thuật số và máy học, các lĩnh vực dịch vụ ứng dụng kết nối internet vạn vật, nông nghiệp công nghệ cao. Tính chất công việc nghề nghiệp thay đổi sẽ kéo theo cần nhiều kỹ năng mới đòi hỏi sự thích ứng của GDNN. Đồng thời với sự xuất hiện của một số ngành, nghề mới, cũng có một số ngành, nghề sẽ bị giảm nhu cầu nhân lực, thậm chí là mất đi.
Để thực hiện được mục tiêu đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN trong giai đoạn tới, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xác định triển khai thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp, trong đó 3 nhóm giải pháp đột phá là: Trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN đi liền với nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở GDNN; Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng, Gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và an sinh xã hội,cụ thể:
Một là: Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDNN. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về GDNN và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án đã được phê duyệt; xây dựng chiến lược, chương trình, dự án phát triển GDNN giai đoạn 2021 - 2030. Phân cấp mạnh quản lý nhà nước về GDNN cho các Bộ, ngành, địa phương; từng bước giảm sự can thiệp hành chính của cơ quan chủ quản đối với hoạt động của cơ sở GDNN. Nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về GDNN các cấp.
Hai là: Trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDNN. Các cơ sở GDNN được tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính theo lộ trình tùy thuộc vào năng lực, ngành, nghề, địa phương. Cơ sở GDNN được lựa chọn ngành, nghề đào tạo, xác định quy mô tuyển sinh, lựa chọn hình thức đào tạo và chủ động xây dựng chương trình đào tạo trên cơ sở chuẩn đầu ra, triển khai áp dụng các chương trình chuyển giao từ nước ngoài. Cơ sở GDNN công lập được tự chủ về các khoản thu, mức thu tùy theo mức độ tự chủ theo quy định của pháp luật theo nguyên tắc giá dịch vụ sự nghiệp công GDNN; được huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân để bổ sung nguồn vốn đầu tư, được sử dụng ngân sách chi đầu tư phát triển đã bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn trong phạm vi thời hạn thực hiện dự án theo quy định của pháp luật để trả nợ gốc vay, được kết cấu vào giá dịch vụ để trả nợ phần lãi vay.
 
Cần tiếp tục có những định hướng cụ thể để nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp
Ba là: Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN. Rà soát, sắp xếp cơ sở GDNN theo giải thể sáp nhập các trường hoạt động kém hiệu quả, ưu tiên đầu tư phát triển các trường chất lượng cao và trọng điểm, khuyến khích doanh nghiệp tham gia mở cơ sở giáo dục nghề nghiệp... Qua đó, chuẩn hóa, giảm đầu mối, tăng quy mô tuyển sinh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Đẩy mạnh phân luồng thông qua đa dạng hóa các chương trình đào tạo dành cho học sinh tốt nghiệp THCS (mô hình 9+). Phát triển các mô hình đào tạo liên thông giữa các bậc học dựa trên nguyên tắc phát triển năng lực gắn với học tập suốt đời và loại bỏ tư duy trọng bằng cấp.
Bốn là: Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng. Xây dựng và ban hành đầy đủ chuẩn các điều kiện đảm bảo chất lượng và các chuẩn có liên quan trong hệ thống GDNN phù hợp với đặc thù Việt Nam và tiếp cận các chuẩn khu vực ASEAN-4 và các nước phát triển trong nhóm G20, như: các hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí về kiểm định, chuẩn chương trình, chuẩn đầu ra, chuẩn cơ sở vật chất thiết bị đào tạo, chuẩn nhà giáo...
Năm là: Tăng cường quản lý chất lượng GDNN. Phát triển đội ngũ kiểm định viên chất lượng GDNN bao gồm nhà giáo, cán bộ quản lý GDNN, chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực GDNN và các chuyên gia, người có kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; Thực hiện cơ chế Nhà nước đặt hàng kiểm định chất lượng GDNN phục vụ yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Đánh giá phân tầng chất lượng để công nhận cơ sở GDNN, chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định chất lượng GDNN, chất lượng cao, tiếp cận trình độ ASEAN-4 và tiếp cận trình độ các nước phát triển thuộc nhóm G20.
Sáu là: Gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm và an sinh xã hội Nâng cao chất lượng hoạt động dự báo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về nhu cầu nguồn nhân lực, nhu cầu việc làm và nhu cầu đào tạo theo lĩnh vực, ngành nghề, cấp trình độ đào tạo. Tăng cường công tác hướng nghiệp, tư vấn về GDNN tại trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và người lao động, cụ thể: Hình thành mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở GDNN và các trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao dịch việc làm, hội chợ việc làm nhằm hỗ trợ người học tìm việc làm sau tốt nghiệp; chú trọng gắn kết đào tạo với xuất khẩu lao động. Phát huy vai trò của doanh nghiệp, người sử dụng lao động, hiệp hội nghề nghiệp trong xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách phát triển GDNN...
Bảy là: Phát triển hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động. Xây dựng, cập nhật, bổ sung tiêu chuẩn nghề quốc gia bảo đảm tương thích với tiêu chuẩn nghề khu vực ASEAN-4, các nước phát triển trong nhóm G20. Phát triển hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia gắn với các cơ sở GDNN đào tạo các ngành, nghề trọng điểm, các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động lớn. Đàm phán, công nhận kỹ năng nghề giữa Việt Nam và các nước trong khu vực ASEAN; liên kết, hội nhập khu vực ASEAN và quốc tế về tiêu chuẩn kỹ năng nghề, đặc biệt trong các khuôn khổ APEC, ASEAN, Tiểu vùng sông Mê Công,...
Tám là: Tăng cường truyền thông, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động về lợi ích, quyền và nghĩa vụ tham gia GDNN, của cơ quan quản lý các cấp về tầm quan trọng của GDNN đối với nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu một số mô hình GDNN thành công trên thế giới và vận dụng phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Bồi dưỡng, nâng cao năng lực nghiên cứu cho đội ngũ giảng viên trong các trường đại học sư phạm kỹ thuật, CĐ, các khoa sư phạm kỹ thuật thuộc các trường đại học kỹ thuật công nghệ. Tham gia các tổ chức quốc tế về GDNN như về đảm bảo chất lượng, kiểm định và công nhận chất lượng GDNN, tiêu chuẩn kỹ nghề; thúc đẩy việc công nhận lẫn nhau về văn bằng chứng chỉ về GDNN giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Tăng cường liên kết đào tạo với nước ngoài, đặc biệt là các ngành nghề đặc thù như nhóm ngành nghề trong lĩnh vực nghệ thuật, ngành nghề phục vụ cuộc các mạng 4.0... 
GS.TS. Lê Quân
Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
Từ khóa: