70 năm sáng ngời đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”
Đất nước ta suốt chiều dài hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước đã ghi dấu công lao của biết bao thế hệ những người con nước Việt đem xương máu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Lịch sử đó đã hun đúc nên đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”...
Kế thừa truyền thống ngàn đời của dân tộc, ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chọn ngày 27/7/1947 là Ngày Thương binh toàn quốc (năm 1955 được đổi tên thành Ngày Thương binh - Liệt sĩ) để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tưởng nhớ, tôn vinh các anh hùng liệt sỹ, các thương, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và người có công với nước, những người đã cống hiến, hi sinh, vì độc lập, tự do và thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Kể từ đó ngày 27/7 hằng năm đã trở thành ngày có ý nghĩa lịch sử, chính trị, nhân văn sâu sắc, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong suốt 70 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác tri ân liệt sĩ, gia đình liệt sĩ và công tác thương binh, đã từng bước xây dựng và thực hiện thống nhất trong cả nước một hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng.
Kể từ Sắc lệnh số 20/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 16/2/1947 đặt “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sỹ” đến nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng đã được nghiên cứu xây dựng, ban hành tương đối toàn diện, đầy đủ và kịp thời, được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và được chế định thành các văn bản như Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, Pháp lệnh qui định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” cùng nhiều chính sách ưu đãi khác. Đã thể chế hóa được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách, chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân; cơ bản đáp ứng yêu cầu đề ra. Nhiều vấn đề bất hợp lý do lịch sử để lại cũng như vấn đề mới nảy sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế và những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, như vấn đề xác nhận liệt sỹ, thương binh; chính sách ưu đãi đối với thanh niên xung phong, những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; chính sách ưu đãi về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, chế độ trợ cấp đối với một số đối tượng người có công với cách mạng, chính sách đối với những người tham gia kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế, người có công giúp đỡ cách mạng Việt Nam đang định cư ở nước ngoài cũng đã được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành quan tâm, xem xét giải quyết hiệu quả. Chỉ một tỷ lệ nhỏ người có công còn chưa được xác nhận do thiếu các căn cứ, giấy tờ gốc, các cơ quan chức năng đang nỗ lực triển khai các biện pháp giải quyết vấn đề này.
Nhờ điều kiện công nhận đối tượng người có công được mở rộng, mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công được điều chỉnh tăng cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tính đến năm 2017, cả nước đã xác nhận cho trên 9 triệu người có công, trong đó có 1,2 triệu liệt sĩ, 127.000 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gần 800.000 thương binh và người hưởng chính sách như thương binh, 110.000 người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày và 312.000 người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học được công nhận.
Các chế độ, chính sách đối với người có công cũng không ngừng được bổ sung, mở rộng, như chế độ trợ cấp người phục vụ đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống tại gia đình; chế độ trợ cấp người phục vụ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên sống tại gia đình; chế độ thờ cúng liệt sĩ; điều chỉnh trợ cấp đối với thân nhân liệt sĩ theo định suất liệt sĩ, trường hợp mồ côi cha mẹ hoặc cô đơn không nơi nương tựa được hưởng thêm trợ cấp tuất nuôi dưỡng bằng 0,8 lần mức chuẩn.
Các chế độ bảo hiểm y tế, điều dưỡng phục hồi sức khỏe đối với người có công ngày càng được quan tâm. Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2012 đã quy định: Nhà nước mua bảo hiểm y tế và khám, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế đối với người có công với cách mạng và thân nhân của họ. Năm 2006, ngân sách nhà nước đã dành cho chế độ bảo hiểm y tế đối với người có công với cách mạng khoảng 369 tỷ đồng thì đến năm 2017, số kinh phí này là 1.327 tỷ đồng, tăng gấp 3,5 lần. Chế độ điều dưỡng luân phiên đối với người có công đã được tăng cường, trước đây là 5 năm một lần thì từ năm 2013 chỉ còn 2 năm một lần, đi kèm theo kinh phí tăng thêm khoảng 498 tỷ đồng/ năm nhằm đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của người có công với cách mạng.
Về công tác hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng: Thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, cả nước đã hoàn thành việc hỗ trợ giai đoạn 1 cho 80.000 hộ gia đình có công với cách mạng về nhà ở với kinh phí 2.758 tỷ đồng. Tại phiên họp Chính phủ ngày 04/7/2017, Chính phủ đã thống nhất bổ sung 8.140 tỷ đồng hỗ trợ 313.707 hộ (Tổng cộng cả 2 đợt là trên 11.000 tỷ hỗ trợ cho trên 410.000 hộ). Đồng thời, năm 2014, Quốc hội cũng đã thông qua Luật Nhà ở, trong đó cũng đã quy định người có công với cách mạng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội, cụ thể hóa những mục tiêu, quan điểm của Đảng trong công tác chăm lo, hỗ trợ về nhà ở đối với người có công với cách mạng.
Cùng với các chính sách của Nhà nước, các hoạt động chăm sóc đời sống người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã được xã hội hóa và phát triển rộng khắp, thể hiện tình cảm, trách nhiệm và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ, người có công” được phát triển sâu rộng ở tất cả các địa phương, nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội, cộng đồng cùng nhà nước chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có công với cách mạng. Năm 1997 khi phát động xây dựng Quỹ 'Đền ơn đáp nghĩa" mới huy động được 222 tỷ đồng thì đến năm 2016 đã vận động được 4.124 tỷ đồng, tăng gấp 20 lần. Tính riêng 10 năm (2007 – 2017), cả nước đã đóng góp xây dựng Quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa” hơn 3.481 tỷ đồng, trong đó, quỹ Trung ương hơn 41,36 tỷ đồng, quỹ địa phương hơn 3.440,4 tỷ đồng; xây dựng gần 90.000 nhà tình nghĩa, sửa chữa gần 75.000 nhà tình nghĩa với tổng trị giá gần 12.200 tỷ đồng; tặng gần 159.000 sổ tiết kiệm tình nghĩa trị giá gần 955.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng, tu bổ nghĩa trang, đền đài liệt sĩ cũng được Nhà nước và toàn xã hội chăm lo. Đảng, Nhà nước và quân đội đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế trong việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ. Nhà nước đã đầu tư nâng cấp các trung tâm giám định ADN của các Bộ, ngành nhằm đẩy nhanh việc xác định danh tính hài cốt liệt sỹ. Các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị đã tích cực trong việc phát hiện, quy tập mộ liệt sỹ và ghi danh, ghi công liệt sỹ. Công tác thông tin, tuyên truyền phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ đã tạo sức lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân. Bằng phương pháp thực chứng, phương pháp giám định AND, các cơ quan chức năng đã quy tập, lấy mẫu hài cốt liệt sỹ, sinh phẩm thân nhân liệt sỹ, phân tích hàng chục nghìn trường hợp, góp phần phục vụ tích cực cho công tác tìm kiếm hài cốt liệt sỹ thời gian qua. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2017, Chính phủ cũng đã thống nhất nâng mức chế độ đãi ngộ, có những chính sách hợp lý cho các tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Tính chung trong thời gian qua, cả nước đã tìm kiếm, quy tập được 939.462 hài cốt liệt sỹ; an táng tại 3.077 nghĩa trang trong cả nước.
Việc xây dựng, tu bổ nghĩa trang, công trình tưởng niệm liệt sỹ được các cấp, các ngành chú trọng và đã đạt được những kết quả cụ thể. Năm 2006, kinh phí Trung ương chi cho công tác mộ, nghĩa trang liệt sĩ là 120 tỷ đồng, năm 2017 là 650 tỷ đồng, tăng gấp 5,4 lần. Hiện cả nước có 9.637 công trình ghi công liệt sỹ, bao gồm đài tưởng niệm, nhà bia ghi tên liệt sỹ, nghĩa trang liệt sỹ. Nhiều công trình trở thành công trình văn hóa, có giá trị về mỹ thuật, giáo dục truyền thống, như: Nghĩa trang Điện Biên Phủ, Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn, Nghĩa trang Liệt sỹ Đường 9, Đền liệt sỹ Bến Dược, Khu tưởng niệm liệt sỹ thanh niên xung phong tại ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), Truông Bồn (Nghệ An)...
Với những chính sách ưu đãi của Nhà nước cùng sự chung tay chăm lo của toàn xã hội, đến nay, 100% các mẹ Việt Nam anh hùng đã được các đơn vị nhận phụng dưỡng; 96,5% xã, phường được công nhận làm tốt công tác Thương binh - Liệt sỹ, 97% hộ gia đình người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống người dân nơi cư trú. Nhiều thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ là tấm gương điển hình, tiêu biểu cho ý chí vươn lên, tinh thần vượt khó, đã trở thành những nhà quản lý, nhà khoa học giỏi, những doanh nhân thành đạt, nhiều người đã được Nhà nước trao tặng các danh hiệu cao quý như anh hùng lao động, chiến sỹ thi đua, thầy thuốc nhân dân, nhà giáo nhân dân, nghệ sĩ nhân dân… Họ không chỉ là những anh hùng trong chiến đấu mà còn là các chiến sĩ tiên phong chống lại đói nghèo, vươn lên làm giàu mà còn góp phần xây dựng và phát triển đất nước hôm nay.
Tự hào với những thành quả to lớn đã đạt được nhưng chúng ta cũng phải thẳng thẳn thừa nhận công tác chăm sóc người có công vẫn còn một số hạn chế, tồn tại. Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng tuy đã từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn còn một số bất cập, đặc biệt là còn nhiều vướng mắc trong việc xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, giám định lại thương tật, chế độ ưu đãi đối với người tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; người bị địch bắt tù, đày sau ngày 30/4/1975. Công tác xác nhận người có công với cách mạng đã từng bước được nghiên cứu, sửa đổi, cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho đối tượng nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc, đặc biệt là công tác khám giám định bệnh tật, xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; chưa nghiên cứu, xem xét và có chính sách đối với người bị ảnh hưởng chất độc hóa học thế hệ thứ 3 (cháu của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học); chưa có chế độ đối với các đối tượng tham gia kháng chiến trong giai đoạn 1974 - 1975 nhưng chưa đủ thời gian được cấp Huy chương; việc xác nhận các đối tượng không còn giấy tờ gốc, người bị địch bắt tù, đày,… chưa được giải quyết triệt để. Đời sống của một bộ phận người có công vẫn còn gặp nhiều khó khăn, mức phụ cấp, trợ cấp thấp so với yêu cầu, chưa đáp ứng với mức tiêu dùng bình quân toàn xã hội. Việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin gặp nhiều khó khăn do thời gian diễn ra quá lâu (các dấu vết, căn cứ tìm kiếm dần bị mai một, địa hình hiểm trở,…), các mẫu sinh phẩm hài cốt không còn nguyên vẹn, không đảm bảo chất lượng giám định AND. Cùng với đó là điều kiện cơ sở vật chất cho công tác tìm kiếm, quy tập, giám định gen còn nhiều hạn chế, chưa được đầu tư đồng bộ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện và quản lý chính sách ưu đãi người có công với cách mạng còn nhiều hạn chế, chậm đổi mới. Công tác tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người có công và thân nhân người có công tuy đã được triển khai rộng khắp nhưng có nơi, có lúc chưa phong phú, thường xuyên, chỉ tập trung vào dịp 27/7 hằng năm.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên”. Để đạt được mục tiêu này, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, các cấp, các ngành cần chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương, chính sách ưu đãi khác về kinh tế - xã hội đối với người có công, đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm cho người có công và con em của họ; giúp đỡ thiết thực về vật chất và tinh thần đối với các đối tượng chính sách, nhất là đối tượng còn nhiều khó khăn để phấn đấu đến năm 2020 đạt 100% hộ người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Đồng thời, tiến hành rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các chính sách ưu đãi đối với người có công cho phù hợp với tình hình của đất nước. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch mọi chính sách về người có công.
Hai là, ưu tiên các nguồn lực để đảm bảo thực hiện tốt chính sách ưu đãi, có các giải pháp thiết thực nhằm huy động nguồn lực xã hội vào việc chăm sóc người có công với cách mạng. Tiếp tục ưu tiên bố trí các nguồn lực từ ngân sách nhà nước để thực hiện chính sách ưu đãi người có công; đổi mới việc phân bổ nguồn lực, phân cấp mạnh cho các địa phương, gắn trách nhiệm của địa phương trong việc quản lý, sử dụng, lồng ghép các nguồn lực. Có chính sách và giải pháp thiết thực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để thực hiện chăm lo đời sống gia đình chính sách.
Hai là, ưu tiên các nguồn lực để đảm bảo thực hiện tốt chính sách ưu đãi, có các giải pháp thiết thực nhằm huy động nguồn lực xã hội vào việc chăm sóc người có công với cách mạng. Tiếp tục ưu tiên bố trí các nguồn lực từ ngân sách nhà nước để thực hiện chính sách ưu đãi người có công; đổi mới việc phân bổ nguồn lực, phân cấp mạnh cho các địa phương, gắn trách nhiệm của địa phương trong việc quản lý, sử dụng, lồng ghép các nguồn lực. Có chính sách và giải pháp thiết thực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để thực hiện chăm lo đời sống gia đình chính sách.
Ba là, tập trung chỉ đạo, xử lý dứt điểm những vướng mắc trong công tác xác nhận người có công, đặc biệt các trường hợp người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, người hoạt động cách mạng tiền khởi nghĩa, người bị địch bắt tù, đày sau ngày 30/4/1975,… Tập trung chỉ đạo công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực ưu đãi người có công, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện và quản lý chính sách. Đặc biệt là cắt giảm tối đa thủ tục hành chính trong việc xác nhận người có công, thực hiện xã hội hóa dịch vụ công (như: Dịch vụ chi trả trợ cấp, dịch vụ điều dưỡng luân phiên,…), đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách người có công.
Bốn là, đẩy mạnh tuyên truyền truyền thống yêu nước và đạo nghĩa "Uống nước nhớ nguồn" trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ, làm cho mọi người nhận thức sâu sắc và trân trọng tri ân công lao to lớn của các anh hùng - liệt sỹ và những người có công với nước; biến nhận thức và tình cảm tốt đẹp đó thành hành động thiết thực góp phần thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng.
Năm là, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công tiếp tục phát huy ý chí tự lực tự cường, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống và tham gia các hoạt động xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng quê hương đất nước với phương châm “Nhà nước, nhân dân và những người được hưởng chính sách ưu đãi cùng chung sức”. Tiến hành sơ tổng kết, rút kinh nghiệm, phát hiện và nhân rộng những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong công tác thương binh, liệt sỹ và người có công; qua đó thúc đẩy các phong trào "Đền ơn đáp nghĩa", “Toàn dân chăm sóc người có công với nước” phát triển rộng khắp, đi vào chiều sâu và đem lại hiệu quả thiết thực; đồng thời biểu dương những tấm gương thương binh, bệnh binh và người có công tiêu biểu.
Sáu là, thực hiện tốt tốt hơn công tác tu bổ, tôn tạo các nghĩa trang liệt sỹ và công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ, xác định danh tính liệt sỹ. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ, tạo ra sức lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân, tích cực thông tin và tham gia hoạt động tìm kiếm hài cốt liệt sĩ. Tăng cường đầu tư các phương tiện vật chất, kỹ thuật đảm bảo cho công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ. Đầu tư trang thiết bị hiện đại cho công tác giám định gen ADN để xác định danh tính hài cốt liệt sĩ
Sáu là, thực hiện tốt tốt hơn công tác tu bổ, tôn tạo các nghĩa trang liệt sỹ và công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ, xác định danh tính liệt sỹ. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ, tạo ra sức lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân, tích cực thông tin và tham gia hoạt động tìm kiếm hài cốt liệt sĩ. Tăng cường đầu tư các phương tiện vật chất, kỹ thuật đảm bảo cho công tác tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ. Đầu tư trang thiết bị hiện đại cho công tác giám định gen ADN để xác định danh tính hài cốt liệt sĩ
Bảy là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc xác lập hồ sơ và thực hiện chế độ trợ cấp đối với người có công: Tiếp tục xem xét, ưu tiên bố trí đầu tư các nguồn lực bảo đảm nhằm nâng cao năng lực các cơ quan thanh tra từ Trung ương đến địa phương để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ. Xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật đối với những trường hợp giả mạo hồ sơ để hưởng chế độ ưu đãi người có công. Đối với những vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện qua thanh tra, kiểm tra sẽ chuyển sang cơ quan điều tra để xử lý theo quy định./.
Đào Ngọc Dung
Ủy viên BCH Trung ương Đảng
Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
Từ khóa:
-
Kinh nghiệm của Indonesia về Đào tạo nghề nghiệp và cấp chứng chỉ dựa trên năng lực
20-12-2024 09:42 12
-
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị nguồn nhân lực
08-12-2024 16:25 28
-
Hà Nội: Nâng cao năng lực quản trị theo hướng tự chủ tại các trường nghề công lập
05-12-2024 14:46 41
-
Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng lao động với người quản lý doanh nghiệp
29-07-2024 10:47 19
-
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp
14-05-2024 10:45 10
-
An toàn và sức khỏe của người lao động bị tác động nghiêm trọng bởi biển đổi khí hậu
28-04-2024 09:17 13
English Review
International migrants are vital force in the global labour market
English Review | 19-12-2024 14:25 00