Thúc đẩy cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(LĐXH) - Trong những năm qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đã tích cực triển khai chủ trương của Đảng về việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL), từ đó góp phần vào sự phát triển chung của Bộ, ngành. Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế tự chủ còn nhiều khó khăn, vướng mắc cả về cơ chế chính sách và trong quá trình tổ chức thực hiện.
Bài viết sau nhằm đề xuất các giải pháp thúc đẩy cơ chế tự chủ trong các đơn vị SNCL thuộc Bộ đến năm 2025, bao gồm: sắp xếp tổ chức bộ máy các đơn vị SNCL; đổi mới quản lý biên chế, nhân sự; đổi mới về cơ chế tài chính; đẩy mạnh cung ứng dịch vụ công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp công; nâng cao năng lực quản trị, hoàn thiện cơ chế tài chính của đơn vị SNCL…
Thực trạng thực thi cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Hệ thống các đơn vị SNCL trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội được tổ chức đa dạng với nhiều nhiệm vụ khác nhau, ngày càng giữ vị trí quan trọng trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và thực hiện chính sách phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước. Hiện nay, toàn ngành LĐ-TB&XH có 2369 đơn vị SNCL, trong đó có 43 đơn vị SNCL thuộc Bộ LĐ-TB&XH (theo báo cáo tại Văn bản số 203/LĐTBXH-TCCB ngày 14/10/2019 của Bộ gửi Bộ Nội vụ). Trong những năm qua, Bộ LĐ-TB&XH đã tích cực triển khai chủ trương của Đảng về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Hệ thống các đơn vị SNCL của Bộ với đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các nhà giáo dục, đội ngũ bác sỹ, .v.v…đã có đóng góp to lớn đối với sự nghiệp lao động, người có công và xã hội. Trong thời gian qua, Bộ LĐ-TB&XH đã trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền, thực thi các Nghị định, Thông tư trong đó có các nội dung liên quan đến cơ chế tự chủ của các đơn vị SNCL thuộc ngành LĐ-TB&XH, cơ chế phân cấp thực hiện tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ. Trong quá trình thực hiện, các quy định phân cấp quản lý, sử dụng công chức, viên chức về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu, phát huy tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị, bảo đảm sự quản lý, điều hành thống nhất của Bộ.
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ LĐ-TBXH đã triển khai nhiều hoạt động về đổi mới, thực thi các cơ chế tự chủ trong các đơn vị SNCL thuộc Bộ, cụ thể:
- Thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy các đơn vị SNCL: Các đơn vị SNCL đều đã xây dựng phương án kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của đơn vị, đảm bảo phù hợp với chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy. Kết quả trong vòng hơn 02 năm (30/6/2017- 30/11/2019), Bộ đã tinh giản được 02 đơn vị, giảm 30 cấp phòng, khoa/10 đơn vị thuộc Bộ và đang tiếp tục kiện toàn, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập, phấn đấu đến năm 2020 giảm ít nhất 10% đầu mối cấp phòng và tương đương trực thuộc so với năm 2019 và đến năm 2025 giảm ít nhất 20% đầu mối cấp phòng và tương đương trực thuộc so với năm 2020 (theo báo cáo tại Văn bản số 3803/LĐTBXH-TCCB ngày 14/9/2019, Văn bản số 621/LĐTBXH-TCCB ngày 25/02/2020 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo kết quả 02 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương và 04 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế).
- Triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ. Định hướng xây dựng kế hoạch, quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ cung ứng dịch vụ công thuộc lĩnh vực lao động, người có công và xã hội và giao tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính giai đoạn 2016 - 2020 (theo Quyết định số 1003/QĐ-LĐTBXH ngày 27/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Kế hoạch cải cách hành chính của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giai đoạn 2016-2020), như sau:
+ Chuyển đổi 03 Trung tâm Kiểm định kỹ thuật an toàn thuộc Bộ thành công ty cổ phần dự kiến trong năm 2020.
+ Đối với 40 đơn vị sự nghiệp công lập còn lại sẽ thực hiện sắp xếp theo hướng:
(1) Đối với 03 đơn vị trực thuộc Bộ (gồm: Trung tâm Lao động ngoài nước, Nhà khách Người có công và Trung tâm Huấn luyện an toàn vệ sinh lao động): Giai đoàn 2016 - 2020, định hướng đẩy mạnh hoạt động theo cơ chế tự chủ tài chính, tiến tới hoạt động theo cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ hoàn toàn chi thường xuyên; hoạch toán như doanh nghiệp; khuyến khích liên kết hợp tác trên cơ sở bảo toàn tài sản và mục đích cung cấp dịch vụ công (hiện tại đã tự chủ hoàn toàn).
(2) Đối với các đơn vị thuộc khối giáo dục đào tạo, y tế và sự nghiệp khác đang tự đảm bảo một phần chi thường xuyên: Giai đoạn 2016 – 2018: Thực hiện cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo một phần chi thương xuyên, phấn đấu tự chủ kinh phí chi thường xuyên năm sau cao hơn năm trước và đến năm 2018 đạt trên 40% (riêng Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh thực hiện cơ chế tự chủ theo Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày 04/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ). Giai đoạn 2019 – 2020: Tiếp tục thực hiện cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tự đảm bảo chi thường xuyên. Hàng năm, đẩy mạnh phát triển hoạt động dịch vụ, sự nghiệp để tăng tỷ lệ tự chủ chi thường xuyên, giảm chi từ ngân sách nhà nước, phấn đấu tự chủ chi thường xuyên năm sau cao hơn năm trước và đến năm 2020 đạt 70%.
(3) Đối với các đơn vị thuộc khối báo, tạp chí do nhà nước đang đảm bảo một phần chi thường xuyên (Hợp nhất, sáp nhập đảm bảo định hướng quy hoạch báo chí mỗi Bộ chỉ có 01 Báo và 01 Tạp chí).
(4) Đối với Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam: Giai đoạn 2016 – 2020 sử dụng nguồn kinh phí vận động và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để đảm bảo đảm 100% chi thường xuyên.
(5) Đối với các đơn vị thuộc khối bảo trợ xã hội, nuôi dưỡng người có công…hiện do Nhà nước đảm bảo 100% và một phần chi thường xuyên: Đính hướng giai đoạn 2016 - 2020 đẩy mạnh hoạt động theo cơ chế tự chủ, tiến tới tự chủ một phần chi thường xuyên.
- Thực hiện cơ chế tự chủ về nhân sự:
Theo Quy chế phân cấp quản lý viên chức trong các đơn vị sự nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 06/2007/QĐ-LĐTBXH ngày 22/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, theo đó Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ có thẩm quyền quyết định các nội dung: Tuyển dụng, tiếp nhận, ký và chấm dứt hợp đồng làm việc, điều động, thuyên chuyển, biệt phái; Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, không bổ nhiệm lại; cho từ chức, miễn nhiệm; Bổ nhiệm vào ngạch khi tuyển dụng, nâng ngạch, chuyển ngạch, chuyển loại viên chức; nâng bậc lương thường xuyên, phụ cấp các loại; khen thưởng, kỷ luật; thôi việc, nghỉ hưu; quản lý hồ sơ viên chức và giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, các chính sách khác đối với viên chức từ cấp phòng và tương đương trở xuống, viên chức giữ ngạch hoặc chức danh nghề nghiệp hạng II trở xuống.
Giai đoạn 2015 - 2019, tổng số người làm việc tại các đơn vị sự nghiệp ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên và tự chủ một phần chi thường xuyên của Bộ giảm 169 người (tương đương 5,94%). Tính đến thời điểm 30/6/2019, công chức, viên chức và người lao động đang làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập ngân sách nhà nước đảm bảo chi thường xuyên và tự chủ một phần là 3.274 người. Trong đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên là 509 viên chức và người lao động.
Đối với việc xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp, Bộ đã phê duyệt Đề án vị trí việc làm của 33 đơn vị sự nghiệp (các đơn vị còn lại là các đơn vị tự chủ, Thủ trưởng đơn vị quyết định Đề án vị trí việc làm, số lượng người làm việc theo thẩm quyền quy định tại Điều 7 Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập). Đồng thời, Bộ cũng đã ban hành Danh mục vị trí việc làm đối với các đơn vị sự nghiệp[1] và đang tiếp tục thực hiện kế hoạch xây dựng Đề án vị trí việc làm theo từng lĩnh vực của Ngành.
Nhìn chung, trong những năm qua, Bộ LĐ-TBXH đã tổ chức triển khai các cơ chế, chính sách liên quan đến từng loại hình đơn vị sự nghiệp, đặc biệt là chủ trương thực hiện tự chủ, xã hội hóa đơn vị SNCL. Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị SNCL thuộc phạm vi quản lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ động trong quản lý, tổ chức bộ máy và hoạt động; sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí được giao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện cũng gặp còn một số tồn tại, vướng mắc phát sinh như sau: (1) Mặc dù hệ thống văn bản pháp luật về ĐVSNCL đã từng bước được hoàn thiện nhưng nhiều văn bản ban hành chậm hoặc chưa kịp thời sửa đổi bổ sung (ví dụ: trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo chưa có văn bản hướng dẫn định mức kinh tế - kỹ thuật, phương pháp xác định giá dịch vụ đối với các trường đại học công lập hoặc trong lĩnh vực y tế chưa có văn bản hướng dẫn định mức kinh tế - kỹ thuật, phương pháp xác định giá dịch vụ đối với các bệnh viện chỉnh hình và phục hồi chức năng,…vì vậy, chưa có cơ sở xác định số lượng người làm việc); (2) Đề án vị trí việc làm đã được triển khai và phê duyệt danh mục, tuy nhiên việc xác định cụ thể, mang tính chất định lượng đối với mỗi vị trí việc làm là khó, ngoài quy định pháp luật cần phải có cơ sở khoa học, nên công tác tuyển dụng, bố trí phân công công việc chưa thực sự sát với yêu cầu công việc; (3) Quy hoạch mạng lưới ĐVSNCL của tất cả các lĩnh vực do các Bộ quản lý chuyên ngành ban hành chưa thể hiện rõ quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tế; (4) Việc triển khai thực hiện cơ chế giá dịch vụ trong cung cấp các dịch vụ công còn chậm do thiếu quy định hướng dẫn cụ thể trong một số lĩnh vực; (5) Quá trình thực hiện quy chế phân cấp quản lý viên chức đã phát huy tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm sự quản lý, điều hành thống nhất của Bộ song một số đơn vị còn bị động, chưa phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Một số định hướng, giải pháp đề xuất
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động của các đơn vị SNCL thuộc Bộ LĐ-TBXH, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về định hướng đổi mới hoạt động của các đơn vị SNCL, trong thời gian tới, để tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL của Bộ, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền và phổ biến các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Chính phủ, văn bản quy phạm pháp luật và Chương trình hành động của Ban Cán sự Đảng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về nội dung tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ nói riêng thông qua nhiều hình thức khác nhau (văn bản chỉ đạo, hội thảo, tập huấn,…). Tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, phát huy vai trò của những cá nhân công chức, viên chức và người lao động và các đoàn thể chính trị - xã hội trong đơn vị. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cố tình né tránh hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao.
Hai là, sắp xếp tổ chức bộ máy các đơn vị SNCL
- Tiếp tục rà soát, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của toàn bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ theo tinh thần Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII;
- Rà soát, tổ chức lại cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Đến năm 2020, giảm ít nhất 10% đầu mối cấp phòng và tương đương trực thuộc so với năm 2019 và đến năm 2025 giảm ít nhất 20% đầu mối cấp phòng và tương đương trực thuộc so với năm 2020.
- Duy trì hoạt động của các đơn vị SNCL đang hoạt động hiệu quả; Nghiên cứu thí điểm tách đơn vị SNCL có khả năng xã hội hóa cao, phục vụ nhu cầu xã hội, đã tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư ra khỏi cơ quan chủ quản; chỉ giữ lại những đơn vị SNCL phục vụ trực tiếp hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là đơn vị nghiên cứu chính sách, chiến lược, thông tin tuyên truyền trực tiếp cho ngành LĐBXH;
- Nghiên cứu phương án thay đổi tổ chức bộ máy đối với những đơn vị SNCL quy mô nhỏ, không phục vụ quản lý nhà nước hoặc hoạt động trong lĩnh vực đã xã hội hóa cao (giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình,...).
- Chuyển tổ chức khoa học công nghệ công lập hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về trực thuộc Trường đại học hoặc nghiên cứu xây dựng ban hành quy chế phối hợp hoạt động giữa tổ chức khoa học công nghệ với cơ sở giáo dục đào tạo, giáo dục nghề nghiệp để thúc đẩy gắn kết giữa nghiên cứu với đào tạo.
Ba là, đổi mới việc quản lý số lượng người làm việc, nhân sự
- Đổi mới cơ chế xác định và giao số lượng người làm việc theo hướng quản lý, giám sát chặt chẽ số lượng người làm việc của các đơn vị SNCL do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ hoặc một phần chi thường xuyên. Đối với các đơn vị này, giao số lượng người hưởng lương ngân sách, số người làm việc còn lại căn cứ theo Đề án vị trí việc làm, số lượng người làm việc của từng đơn vị giao cho các Bộ, ngành, địa phương tự quyết định (không hưởng lương ngân sách nhà nước). Đối với các đơn vị sự nghiệp công cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, có thể áp dụng theo hướng Thủ trưởng đơn vị quyết định Đề án vị trí việc làm và số lượng người làm việc của đơn vị đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao và quỹ tiền lương của đơn vị theo cơ chế tính đủ, tính đúng giá dịch vụ sự nghiệp hoặc giao định mức kinh phí cho từng bộ phận thực hiện nhiệm vụ phục vụ.
- Quy định và thực hiện nghiêm về số lượng lãnh đạo cấp phó. Đổi mới cơ chế, phương thức tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức (bao gồm cả viên chức quản lý); nghiên cứu, thực hiện thí điểm việc thi tuyển vị trí chức danh Thủ trưởng đơn vị.
Bốn là, đổi mới về cơ chế tài chính thông qua việc xác định dịch vụ công sử dụng NSNN; Cơ chế tính giá dịch vụ sự nghiệp công; Cơ chế thực hiện tự chủ tài chính đối với đơn vị SNCL.
- Xác định dịch vụ công sử dụng NSNN thông qua việc xây dựng danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN theo nguyên tắc đối với các dịch vụ thiết yếu thì Nhà nước bảo đảm kinh phí, đối với các dịch vụ cơ bản thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện; đối với các dịch vụ mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực thì thực hiện theo cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu để tạo điều kiện cho các cơ sở ngoài công lập cùng tham gia; đối với các dịch vụ khác thì đẩy mạnh thực hiện theo cơ chế xã hội hóa, huy động sự tham gia cung ứng của các thành phần kinh tế.
- Cơ chế tính giá sử dụng dịch vụ công theo hướng đối với dịch vụ sự nghiệp công có sử dụng NSNN, đơn vị cần hạch toán đầy đủ các khoản chi phí cung cấp từng dịch vụ sự nghiệp công của đơn vị để xác định định mức kinh tế - kỹ thuật của mỗi dịch vụ, làm cơ sở xác định giá dịch vụ sự nghiệp công và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN; đối với dịch vụ sự nghiệp không sử dụng NSNN, đơn vị chủ động tính toán xác định giá dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, được quyết định các khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy theo quy định của pháp luật đối với từng lĩnh vực (trừ giá dịch vụ đào tạo tại cơ sở giáo dục - đào tạo thì thực hiện theo quy định của pháp luật về giá).
- Cơ chế thực hiện tự chủ tài chính đối với đơn vị SNCL cần căn cứ quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị SNCL trong từng ngành, lĩnh vực để chỉ đạo các đơn vị SNCL xây dựng phương án tự chủ tài chính theo quy định để xem xét, phân loại mức độ tự chủ tài chính sau khi có ý kiến của cơ quan tài chính và ý kiến của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực sự nghiệp. Nâng cao năng lực quản trị, hoàn thiện cơ chế tài chính của đơn vị SNCL theo hướng đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị SNCL và phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị SNCL và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
Năm là, đẩy mạnh cung ứng dịch vụ công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp công. Theo đó, xác định các dịch vụ sự nghiệp công do ngân sách nhà nước phải bảo đảm, các dịch vụ công khác không sử dụng ngân sách nhà nước được xác định giá theo cơ chế thị trường, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy.
Sáu là, trong thời gian tới, các đơn vị quản lý nhà nước về các lĩnh vực của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội theo chức năng, nhiệm vụ: (1) Xây dựng Đề án sắp xếp, tổ chức lại hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở và linh hoạt đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, bảo đảm quy mô, cơ cấu và hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, chuẩn hóa, hiện đại hóa, có phân tầng chất lượng; (2) Xây dựng Đề án phát triển các trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; (3) Ban hành quy định về việc hợp nhất các trung tâm bảo trợ có chức năng, nhiệm vụ tương đồng thành trung tâm bảo trợ đa chức năng; (iv) Xây dựng cơ chế, chính sách để khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp, tham gia xây dựng danh mục ngành, nghề đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo và đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương khóa XII về việc tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành Trung ương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
3. Nghị quyết số 08/NQ-CP của Chính phủ ngày 24/01/2018 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/ 2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
4. Nghị định số 16/2016/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ ngày quy định cơ chế tự chủ của đơn vị SNCL.
5. GS. TS. Vương Đình Huệ, Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Bài đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước.
6. Văn bản số 3803/LĐTBXH-TCCB ngày 14/9/2019, Văn bản số 621/LĐTBXH-TCCB ngày 25/02/2020 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo kết quả 02 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương và 04 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế./.
ThS. Trần Thị Thu Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ
Từ khóa:
-
Kinh nghiệm của Indonesia về Đào tạo nghề nghiệp và cấp chứng chỉ dựa trên năng lực
20-12-2024 09:42 12
-
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản trị nguồn nhân lực
08-12-2024 16:25 28
-
Hà Nội: Nâng cao năng lực quản trị theo hướng tự chủ tại các trường nghề công lập
05-12-2024 14:46 41
-
Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng lao động với người quản lý doanh nghiệp
29-07-2024 10:47 19
-
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp
14-05-2024 10:45 10
-
An toàn và sức khỏe của người lao động bị tác động nghiêm trọng bởi biển đổi khí hậu
28-04-2024 09:17 13